Chữa trị Nhiệt miệng áp tơ

Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý và độ chính xác của các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe. Đề nghị liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. Khuyến cáo cẩn thận khi sử dụng các thông tin này. Xem chi tiết lại Wikipedia:Phủ nhận y khoaWikipedia:Phủ nhận về nội dung.

Dùng thuốc bôi tại chỗ

+ KAMISTAD – Gel N: Thuốc chữa viêm nhiễm răng miệng, Kamistad – Gel N của Đức được chiết xuất từ dịch chiết hoa cúc, loại thảo dược hoạt tính kháng khuẩn, kháng viêm cao, giảm đau.

+ ORACORTIA: Thành phần Triamcinoloneacetonide.Là loại thuốc kháng viêm dạng Corticoide có tác dụng điều trị hỗ trợ làm giảm tạm thời các triệu chứng viêm nhiễm khoang miệng hay tổn thương dạng loét do chấn thương.

Chống chỉ định: Mẫn cảm với thành phần thuốc. Tổn thương do nhiễm nấm, bạch biến, herpes, khối u mới mọc,mụn trứng cá đỏ, loét hạch. Không dùng trên vùng da rộng hay lượng lớn thời gian dài. Phụ nữ có thai hoặc cho con bú. Tác dụng phụ: Teo da,ban đỏ, rạn và làm mỏng da, rạn da đặc biệt vùng nhiều nếp gấp.

+ Các loại thuốc bôi không chuyên dụng khác:

- Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương, thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thương tổn trong vòng 3 - 5 ngày.

- Debacterol là phức hợp phenol: sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tương tự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảm giác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 - 5 ngày. Thuốc bán theo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lần mỗi ngày.

- Các loại kem bôi có chứa triamcinolone acetonide: Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốt nhất là sau bữa ăn chính và trước khi đi ngủ.

- Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap):Dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và vết loét lành nhanh chóng. Tuy nhiên, thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gây kích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.

- Gel lidocaine: Gel 2%lidocaine:Bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốc sau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.

Dùng thuốc bôi tạo màng ngăn

Các vết loét trong niêm mạc miệng rất lâu lành là do thường xuyên bị chìm trong nước bọt và dịch thức ăn. Một phương pháp mới được đưa ra để chữa trị chứng loét miệng này là: dùng thuốc bôi trực tiếp lên vết loét, phối hợp bốn loại thuốc: Sunfamethoxazon, trimethoprim, Serathiopeptit, hoạt chất tạo màng ngăn.

Thuốc vào trong miệng gặp nước bọt và dịch huyết tương rỉ ra từ chỗ tổn thương tạo thành màng, màng này đủ sức chịu đựng được sự tấn công của nước bọt và dịch thức ăn từ 6 - 8 giờ, cứ 6 - 7 giờ bôi thuốc một lần sẽ tạo được màng ngăn cách vết loét với dịch khoang miệng, từ đó làm cho vết loét rất nhanh lành. Đồng thời thuốc có tác dụng chống nhiễm khuẩn, kháng viêm, ngăn chặn hiện tượng tái phát. Kết hợp uống thêm vitamin, thuốc tăng cường chức năng gan hoặc kháng sinh nếu thấy cần thiết.

Sau 6 - 7 lần bôi thuốc xuất hiện các dấu hiệu lành vết loét, sau 1 - 2 lần bôi thuốc khi ăn mặn sẽ không xót (do thuốc tạo màng ngăn). Tiếp tục bôi thuốc khi loét tái phát (do đặc điểm của bệnh là tái diễn từng đợt cho, nên chỉ bôi thuốc lúc có viêm loét) thấy diễn biến viêm loét nhẹ dần và thưa dần rồi khỏi, bệnh khỏi theo lộ trình giảm dần đi và thưa dần ra.

Các phương pháp điều trị theo toa

Chế phẩm corticosteroid có chứa hydrocortisone acetonide hemisuccinate hoặc triamcinolone để kiểm soát các triệu chứng có hiệu quả trong điều trị loét nặng.

Việc áp dụng các nitrat bạc để đốt cháy những vết đau; có tác dụng giảm đau nhất thời nhưng không giảm thời gian lành vết loét, ở trẻ em nó có thể gây ra sự đổi màu răng nếu răng vẫn còn đang phát triển.

Việc sử dụng tetracycline là gây tranh cãi, cũng như là điều trị với Levamisole, colchicine, gamma-globulin, Dapsone, thay thế estrogen và các thuốc ức chế monoamine oxidase.

Một thuốc mới hơn được gọi là Debacterol, một loại sulfuric acid / phenolics là giải pháp được sử dụng để đốt cháy vết đau, cho thấy có tác dụng giảm đau và giảm thời gian chữa bệnh. Tuy nhiên, mãi tới gần đây mới chấp thuận bởi FDA.

Bệnh nặng đôi khi được điều trị bằng corticosteroid như prednisone và thuốc chống virus như acyclovir.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhiệt miệng áp tơ http://www.emedicine.com/derm/topic486.htm http://www.emedicine.com/ent/topic700.htm http://www.emedicine.com/ped/topic2672.htm http://www.icd9data.com/getICD9Code.ashx?icd9=528.... http://www.mayoclinic.com/invoke.cfm?id=DS00354 //www.nlm.nih.gov/cgi/mesh/2022/MB_cgi?field=uid&t... http://apps.who.int/classifications/icd10/browse/2... http://www.aafp.org/afp/20000701/149.html https://medlineplus.gov/ency/article/000998.htm https://web.archive.org/web/20110606054042/http://...